Thống kê số lượt khách quốc tế đến Việt Nam chưa thực sự chính xác
Là một trong những doanh nghiệp lữ hành Inbound uy tín và có lượng khách ổn định nhiều năm nay, ông Nguyễn Trường Sơn, Giám đốc Công ty Vietnam Insolite Voyage có những chia sẻ khá thẳng thắn với Dân Việt xung quanh vấn đề này.
Xin chào ông Nguyễn Trường Sơn, vừa qua Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam đưa ra con số kỳ vọng khách quốc tế đến Việt Nam là 23 triệu lượt khách. Ông nghĩ sao về mục tiêu này?
Nhìn vào số lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm 2024 và theo cách thống kê mà ngành du lịch tính, tôi nghĩ mục tiêu đón 22-23 triệu lượt khách quốc tế sẽ đạt được. Tuy nhiên, trong số 22-23 triệu lượt khách quốc tế có bao nhiêu người là khách du lịch và bao nhiêu người là có khả năng chi trả đưa được nhiều lợi nhuận, doanh thu về cho ngành du lịch Việt Nam?
Với những lượng khách theo kiểu tây ba lô lên Hà Giang, thuê xe máy đi phượt khắp các con đèo Hà Giang chỉ khiến nơi đây bị ô nhiễm hơn, chưa kể doanh thu từ những vị khách này cho địa phương là rất ít. Nếu có mang lại lợi ích chỉ là lợi ích rất nhỏ cho một vài cá nhân như xe ôm tại Hà Giang, một vài homestay…
Thực lòng, tôi không tin vào con số thống kê mà Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam đang thống kê, bởi cách thống kê này không thực tế.
Có những khách quốc tế đến Việt Nam đâu phải để đi du lịch, họ đến chỉ thuần túy là công việc nào đó của họ. Và nếu như việc thống kê không chính xác sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy. Tôi ví dụ từ con số thống kê không chính xác thì chiến lược phát triển du lịch cũng sẽ không chính xác, dẫn tới sẽ không hiệu quả.
Những đơn vị kinh doanh làm thật sẽ không quan tâm nhiều đến số lượng khách mà sẽ là chất lượng khách và doanh thu. Ví dụ trước dịch, số lượng khách Trung Quốc vào đông nhưng lại xảy ra tình trạng tour không đồng thì doanh thu thu về cho ngành du lịch Việt Nam chẳng còn được gì. Trong khi một du khách Mỹ đến Việt Nam trong 10 ngày mà chi tiêu đến mấy nghìn USD. Chỉ cần nhìn con số doanh thu đã đủ thấy sự chênh lệch.
Hiện tại những thách thức, khó khăn nào của ngành du lịch đang vướng mắc khiến cho lượng khách du lịch thực sự đến Việt Nam được tăng lên, đặc biệt đối với lượng khách cao cấp, chi tiêu nhiều?
Tôi cho rằng, ngành du lịch vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể đáp ứng được số lượng lớn khách du lịch như cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ phát triển không đồng đều, nhân sự (hướng dẫn viên) còn thiếu và yếu… chưa kể ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường. Tôi được biết, Cát Bà hiện nay có những tàu to đi tham quan vịnh Lan Hạ với giá 350.000 đồng/người. Tôi không hiểu với giá như thế này thì chất lượng dịch vụ sẽ ra sao, khi mà tính riêng giá vé xuống tàu đã là 120.000 đồng/người. Tiền ăn là 50.000 đồng. Vậy thì ăn có khác gì cơm bụi trên đất liền? Trong khi ẩm thực Việt Nam đang là thế mạnh, nhưng ăn với giá 50.000 đồng thì chỉ có thể là đồ đông lạnh.
Tôi đã từng nhận rất nhiều lời chia sẻ thật lòng của du khách nước ngoài, họ nói rằng: Việt Nam không thể trở thành điểm đến cao cấp. Là người làm du lịch tôi nghe thấy rất buồn. Nhưng nhìn thực tế điều ông ấy nói quả không sai.
Và yếu tố quan trọng nữa khiến ngành du lịch Việt Nam khó có thể đạt được điểm đến cao cấp dành cho những du khách hạng sang, đó là câu chuyện thuế.
Rất nhiều lần ngành du lịch cũng đã kiến nghị, đề xuất thuế từ ngành du lịch phải được ưu đãi. Ngành du lịch là ngành mang ngoại tệ về cho Việt Nam nhưng lại không được ưu đãi, trong khi các ngành nghề khác như xuất khẩu thì được ưu đãi.
Các doanh nghiệp du lịch không yêu cầu giảm toàn bộ nhưng cũng nên có chính sách ưu đãi nào đó để giúp các doanh nghiệp khi làm du lịch. Mà từ việc hỗ trợ phần nào chính sách ưu đãi thuế đó sẽ khiến các doanh nghiệp du lịch dễ dàng cân đối với giá thành các sản phẩm du lịch. Còn nếu không có sự hỗ trợ thì đương nhiên giá thành của các tour, sản phẩm du lịch sẽ cao để còn bù lỗ cho những chi phí kia. Mà như vậy, vô hình chung du khách, cộng đồng là những người chịu thiệt thòi nhất đồng thời cũng không thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia…
Muốn có sản phẩm du lịch tốt, mang lại thu nhập đồng đều cho cộng đồng thì phải thúc đẩy việc sử dụng các dịch vụ của người dân địa phương. Thế nhưng khi du khách ngủ ở homestay, các doanh nghiệp sẽ không thể lấy hóa đơn đỏ ở các homestay này, vậy các doanh nghiệp du lịch, lữ hành sẽ hạch toán như thế nào?
Theo ông, ngành du lịch cần có những giải pháp như thế nào để có thể thu hút khách quốc tế đến Việt Nam, đặc biệt khách cao cấp, chi tiêu cao?
– Tôi nghĩ Việt Nam cần thay đổi chiến lược phát triển du lịch, cần có một bộ tiêu chuẩn cho từng địa phương. Mỗi bộ tiêu chuẩn đó phải dựa trên những tài nguyên sẵn có của từng địa phương để xây dựng lên các sản phẩm đặc trưng, chứ không nên một bộ tiêu chuẩn áp dụng chung cho cả nước.
Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở ưu trú tại các địa phương như khách sạn, nhà nghỉ, homestay cũng nên có sự tham gia của cơ quan quản lý từ Sở VHTTDL, Sở Du lịch, người có chuyên môn về văn hóa, có một kiến trúc sư
Về cơ sở lưu trú tại các địa phương, các khách sạn, nhà nghỉ, homestay khi được xây dựng nên có tham vấn từ những người có chuyên môn như chuyên gia văn hóa, kiến trúc sư, người quản lý văn hóa có kiến thức sâu về văn hóa vì như vậy sẽ giữ được nét văn hóa bản địa nhưng vẫn tạo được sự hiện đại, thuận tiện, phù hợp với nhu cầu sử dụng của khách du lịch.
Ở Hội An, có thời kỳ phong trào người dân xây dựng khách sạn, cơ sở lưu trú nhưng không có kiến thức về làm du lịch, văn hóa hay kiến trúc vì vậy mà khi xây dựng xong việc sử dụng trang thiết bị trong phòng không thuận tiện, thậm chí rất tréo nghoe.
Chuyên gia du lịch Hà Lan đã từng lên bản Liền, Hà Giang tư vấn cho bà con làm homestay, du lịch cộng đồng. Họ đề xuất cấu trúc những ngôi nhà sàn nên giữ nguyên, không được bê tông hóa mà chỉ nên cải tạo bên trong ngôi nhà cho sạch sẽ, gọn gàng, đi lại thuận tiện.
Khu vệ sinh nên chia tách mà không gộp cả vệ sinh, đánh răng rửa mặt, tắm vào chung một nhà vệ sinh. Nên tách các bồn rửa mặt ra khu ngoài hành lành của các ngôi nhà sàn cộng đồng và đặc biệt cùng trên một mặt sàn. Và hai công năng kia cũng nên tách riêng để sinh hoạt được thuận tiện.
Mất văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc sẽ mất nguyên liệu để phát triển du lịch bền vững
Vào dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ, ông có cho rằng ít nhiều có ảnh hưởng gì tới lượng khách quốc tế đến Việt Nam?
– Tôi không nghĩ rằng Tết Nguyên đán của mình có ảnh hưởng gì tới lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Thậm chí riêng với công ty chúng tôi còn tổ chức các tour xuyên Tết, trong đó có hai khách người Pháp đã đăng ký đi tới 60 ngày. Họ đến Việt Nam từ đầu tháng 3/1 mà đến 3/3 họ mới về nước. Mặc dù mới đầu năm nhưng lượng khách đặt tour bên tôi đã tăng so với năm 2023, đặc biệt là khách Pháp. Đến thời điểm hiện tại, tất cả các hướng dẫn viên của tôi nói tiếng Pháp đã full lịch cho tới tháng 4.
Vì vậy mà khách Pháp giờ họ đặt tour và muốn hướng dẫn viên nói tiếng Pháp là tôi không thể đáp ứng, chỉ có thể hướng dẫn bằng tiếng Anh.
Là người làm du lịch tâm huyết với nghề, yêu văn hóa truyền thống, cảnh quan thiên nhiên, tôi rất mong muốn địa phương có tiềm năng phát triển du lịch, nơi có những bản sắc văn hóa truyền thống, những điểm đến hấp dẫn bởi thiên nhiên, cảnh quan môi trường còn chưa bị tàn phá thì khi đưa vào khai thác cố gắng gìn giữ, bảo vệ những giá trị đó để tạo thành điểm đến hấp dẫn, cao cấp, chất lượng.
Những nếp nhà sàn với mái tranh, mái cọ, mái âm dương, mái gỗ… của đồng bào nó thể hiện nét văn hóa truyền thống, thể hiện tính cộng đồng, gắn kết rất cao. Hay như văn hóa làng xã, hương ước… của các làng quê đồng bằng Bắc Bộ cũng là một trong những điểm hấp dẫn cho du khách nước ngoài, thậm chí là những giới trẻ đang sống ở các thành phố lớn của Việt Nam. Nếu bây giờ mất đi những văn hóa truyền thống đó, sẽ là mất đi nguyên liệu để phát triển du lịch, đồng thời cũng sẽ khó để đạt được tiêu chí du lịch xanh, du lịch bền vững.
Tại sao đi du lịch ở Bhutan đất đến vậy mà vẫn rất đông khách đến? Bởi vì, với Bhutan, họ vẫn giữ được bản sản văn hóa, vẫn giữ được thiên nhiên, chất lượng dịch vụ tốt. Hay như ở phía Bắc của Lào hiện nay du khách rất vắng, các lữ hành Việt Nam không thể xây dựng tour ở đây? Vì ở đây không còn bản sắc văn hóa truyền thống, nhà cửa, đời sống của người dân đã thay đổi hoàn toàn.
Ông nhận định thế nào, năm 2025 xu hướng du lịch sẽ thay đổi ra sao?
Tôi nghĩ từ sau dịch Covid thì xu hướng du lịch đã có sự tăng trưởng dần đều, thậm chí tăng đến mấy chục phần trăm. Tuy nhiên khách càng ngày càng chọn lọc, có trách nhiệm với xã hội, trách nhiệm tới môi trường. Ví dụ, trên các diễn đàn du lịch, rất nhiều khách châu Âu đã không còn thích đến Phú Quốc, bởi đảo Phú Quốc đã bị bê tông hóa, thiên nhiên không còn nhiều như trước mặc dù thời tiết ở Phú Quốc rất đẹp.
Cũng giống như Phú Quốc, hiện tại nhiều khách châu Âu cũng không còn chọn đến Hạ Long (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng). Với vịnh Hạ Long thì đã bị chê rất nhiều về sự ô nhiễm và bê tông hóa. Và Cát Bà, vị trí vịnh mặt trước của Cát Bà, được gọi là vịnh đồng hồ bây giờ cũng đang bị san lấp và thay vào đó là nhà cao tầng. Vịnh đồng hồ đã không còn thơ mộng, cảnh quan thiên nhiên gần như biến mất.
Theo khảo sát trên diễn đàn và chính nhu cầu của khách, hiện nay đa phần du khách nước ngoài, khách châu Âu sẽ chọn đi Côn Đảo nếu họ có nhiều thời gian nghỉ dưỡng, còn nếu ít thời gian họ sẽ chọn đi Đà Nẵng và Hội An (Quảng Nam).
Đặc biệt với du khách Pháp, họ chỉ quan tâm tới các điểm đến có dấu ấn văn hóa, môi trường tự nhiên, được nghỉ dưỡng hòa vào với thiên nhiên. Ngoài ra họ cũng quan tâm tới các sản phẩm nông sản organic của Việt Nam như Trà, cà phê…
Một hãng truyền hình Pháp đang trao đổi với tôi, họ muốn quay ở Việt Nam, cụ thể họ muốn quay một chiếc tàu gỗ, tàu truyền thống và quay làng chài ở vịnh Lan Hạ (Cát Bà) với chủ đề phát triển du lịch bền vững. Tuy nhiên khi thông tin vịnh đồng hồ Cát Bà đang bị san lấp, họ e ngại liệu Cát Bà có còn là điểm đến để phát triển du lịch bền vững.
Xin cám ơn ông!
Nguồn: Sưu tầm
https://diendandulich.tct.info.vn/nam-2025-viet-nam-co-the-don-23-trieu-luot-khach-quoc-te-nhung-doanh-thu-moi-la-dieu-dang-ban-15033.html
0 nhận xét:
Post a Comment